Người Việt Books xuất bản lần thứ nhất tại Hoa Kỳ
Bia và trình bày: Uyên Nguyên
Thương yêu tặng vợ tôi: Phan Thị Ngọc Mai và các con: Phương Chi, Phương Nguyên-Đức Tiến, Mai Hiền-Tăng Thịnh.
Bạn đang xem: Đến già mới chợt tỉnh pdf
Tiểu sử Tống Văn Công
Tên họ: Tống Văn Công
Ngày tham gia kháng chiến chống Pháp: 6-1949
Tham gia Vệ Quốc Đoàn (của Việt Minh): 1951
Tập kết ra miền Bắc: 2-1955
Viết báo: 1952 (cộng tác viên báo Nhân Dân miền Nam do Trần Bạch Đằng làm chủ bút)
Phóng viên báo Lao Động: 1-1960-1975
Tổng biên tập báo Lao Động Mới (cơ quan ngôn luận của liên hiệp công đoàn giải phóng miền Nam (ông Nguyễn Hô) làm chủ tịch: 6-1975-1976
Tổng biên tập báo Công Nhân Giải Phóng (Người Lao Động): 1976-1986
Tổng biên tập báo Lao Động: 1988-1994
6-1994: Nghỉ hưu vì bị tố cáo có “âm mưu diễn biến hòa bình”
9-2009: viết bài “Đổi mới đảng tránh nguy cơ sụp đổ” bị đảng Cộng sản buộc kiểm điểm nhưng vẫn tiếp tục viết 30 bài nữa. Tổ chức Đảng mở 15 cuộc kiểm điểm và yêu cầu tự nhận một hình thức kỷ luật. Ngày 25 tháng năm 2014 công bố “Lời chia tay với đảng Cộng sản Việt Nam”.
Lời nhà xuất bản“Một khi nạn bưng bít thông tin bị phá bỏ thì các chế độ độc tài sẽ tan rã”, Václav Havel nói như thế thì cùng những người có chung chí hướng thành lập “Hiến Chương 77” nhằm tranh đấu cho việc loại bỏ chế độ cộng sản tại Tiệp khắc.
Nhà văn Václav Havel là kịch tác gia từng bị chế độ cầm tù và là tổng thống đầu tiên của tiệp khắc sau khi chế độ cộng sản sụp đổ.
Đã sống và bản thân đã trải nghiệm cái xã hội cộng sản toàn trị trên quê hương, Václav Havel nhìn thấu bộ mặt của chế độ đã hủy hoại xã hội, làm mọi người – không trừ một ai, từ giới lãnh đạo chóp bu cho tới từng người dân đều “sống dối trá”. Havel vạch trần mâu thuẫn đặc thù của chế độ: mâu thuẫn giữa nhu cầu tự nhiên của con người có bản chất sống động và chân thật đối chọi với quy định phi tự nhiên, chết cứng và dối trá của hệ thống toàn trị. Theo ông, trong chế độ toàn trị, từng cá nhân bị đánh bật khỏi sinh hoạt truyền thống như gia đình, bạn bè, hội đoàn, tôn giáo… để chịu đựng sự áp đặt của bộ máy đảng, nhà nước và các đoàn thể bù nhìn.
Hậu quả là “dối trá lên ngôi”. Người ta nghĩ một để nói một nẻo.
Với niềm tin mãnh liệt rằng con người đáng được sống thật với bản chất của mình và đời sống dân sự phải được hồi phục, Václav Havel Kêu gọi mọi người thoát khỏi nỗi sợ hãi, bắt đầu từ việc giải phóng đời sống khỏi sự dối trá đang bao trùm. Ông thúc giục mọi người đừng nói, đừng làm những điều họ không tin tưởng, mà hãy nói và làm những gì tin là đúng. Nghĩa là hãy sống thật. Và cương quyết không dự vào trò hề là các sinh hoạt lố bịch lừa mị dân của chế độ.
Chế độ cộng sản toàn trị Tiệp Khắc trước khi sụp đổ năm 1989 và chế độ toàn trị tại Việt Nam kéo dài đến nay có cùng khuôn mẫu: là con đẻ của chế độ cộng sản toàn trị Liên Xô. Và những suy nghĩ của Václav Havel cũng là của người Việt. Điển hình của lối suy nghĩ đó là tác giả cuốn sách này, ông Tống Văn Công.
Ông Tống Văn Công chỉ bắt đầu nhận ra bộ mặt không tính người của cộng sản Hà Nội khi thông tin bùng nổ trên internet.
Ông thú nhận: “Cứ nghĩ mình gia nhập Vệ Quốc Đoàn khi vừa tròn 18 tuổi, rồi quân ngũ là sẵn sàng đi cuốc đất, gánh gạch xây nhà, hàng chục năm cầm bút bảo vệ chế độ, nên có đủ tư cách khuyên đảng trở về với dân với nước. Nhưng tôi đã lầm! Không phải nhầm hôm nay mà nhầm từ ngày đầu tiên với lòng đầy tự hào bước vào ‘con đường cách mạng’. Nhầm khi đọc ba chữ Vệ Quốc Đoàn mà không hiểu nó hóa trang cho một ý thức hệ còn đang ở ẩn giấu”.
Nhiều sự thật xảy ra khiến Tống Văn Công xét lại lý tưởng mà ông muốn thực hiện trong gần cả cuộc đời. Ông tâm sự: “Năm 1990 phong trào dân chủ nổi lên mạnh mẽ ở các nước xã hội chủ nghĩa Đồng Âu và Liên Xô. Ở trong nước, Trần Xuân Bách đòi đổi mới chính trị, văn nghệ sĩ đòi tự do tư tưởng và sáng tác. Nguyễn Văn Linh dùng mọi thủ đoạn nhằm bảo vệ sự độc quyền của đảng Cộng Sản: Đi Thành đô cầu hòa với địch, cách chức Trần Xuân Bách, chỉ đạo việc cách chức nhà văn Nguyên Ngọc, giữa hội trường Ba Đình dịp mừng ngày Quốc Khánh năm 1990, công khai gọi ‘con Dương Thu Hương chống Đảng, thằng Nguyễn Quang Sáng hư hỏng’”. Trước cách hành xử của Nguyễn Văn linh, tổng Văn công mượn hai câu thơ của Nguyễn duy để nói lên nỗi ngao ngán của mình: “Ta nhờn nhợn cái há mồm vĩ nhân tôm cá. Khạc đủ nghề thằng nọ con kia.”
Václav Havel kêu gọi mọi người hãy làm những gì mình tin là đúng. Tống Văn công trước khi bước qua lời nguyền vào lúc tuyên thể gia nhập đảng Cộng sản, đã không dám hành xử đúng với những gì ông muốn.
Ông viết trong hồi ký là từng sống một thời vô luân để hai chữ “liên quan” đè lên cơm áo. Và chỉ trích chính mình
Ông viết trong hồi ký là từng sống một thời vô luân để hai chữ “liên quan” đè lên cơm áo. Và chỉ trích chính mình “sau khi anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật, tôi còn tiếp tục làm tổng biên tập báo Lao Động ba năm nữa, nhưng không đến thăm anh một lần nào”!
Chẳng riêng ông, nhiều người khác cũng thế: “Nhiều người nhờ Trần Xuân Bách mà leo lên quyền cao chức trọng, nhưng sau khi ông bị kỷ luật, suốt bao năm có anh nào dám đến thăm ông thày cũ của họ đâu”! Tống Văn Công buồn bã kết luận: “cũng đừng trách họ hèn, bởi chúng ta phải sống ‘một thời vô luân’ mà”!
Trong diễn văn đọc khi nhậm chức Tổng thống Tiệp Khắc, Václav Havel tin tưởng đất nước ông rồi ra sẽ có dân chủ tự do, nhưng điều ông lo lắng là phải nhiều thế hệ nữa dân tộc ông mới hồi phục được niềm tin lẫn nhau vì mọi người đã triền miên sống hai mặt dối trá với nhau dưới thời chế độ toàn trị.
Tại Việt Nam xã hội chủ nghĩa, “dối trá lên ngôi” thấy rất rõ qua câu chuyện “Con Trăn Thần” Tống Văn Công kể lại:
“Báo Lao Động giữa năm 1963 có đăng bài của thông tín viên Tất Biểu ở nhà máy bơm Hải Dương đưa tin anh Lê Văn Hạng công nhân nhà máy trong khi đi nghỉ phép đến miền Tây Nghệ An đã bắn hạ một con trăn lớn chưa từng thấy. Tin này được nhiều bạn đọc gửi thư hỏi thêm chi tiết. Tòa soạn liền cử phóng viên Trần Thanh Bình tới gặp Lê Văn Hạng. Nghe anh này thuật lại câu chuyện quá hấp dẫn, anh Bình gợi ý anh Tất Biểu viết lại từ mẩu tin ngắn thành một bài ký sự dài đăng nguyên một trang báo. Anh Tất Biểu viết bài có tựa đề ‘Con Trăn Thần’. Bài viết kể: Trước khi anh Hạng tới đây, nhân dân vô cùng hoảng sợ, bởi con trăn đã bắt đi hai con bò, hai cháu bé. Khi anh Hạng tìm gặp được nó, con trăn vùng dậy, cất đầu lên cao quá các ngọn cây cổ thụ, mồm phun phì phì, nước bọt tuôn xuống như mưa. Anh Hạng phải luồn lách lựa thế để nã đạn đúng vào mồm con trăn liên tục 16 phát, nó mới ngã vật làm gãy bao nhiêu cây cối. Dân làng được tin đưa hai con trâu cổ tới giúp anh Hạng kéo con trăn về làng. Người ta đo con trăn dài gần 30 thước, thân nó to bằng cái vành bánh xe đạp. Họa sĩ Minh Tần minh họa trông giống như cảnh Thạch Sanh chém con chằn tinh.
“Số báo đăng bài này gây tiếng vang lớn trong và ngoài nước. Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh dịch bài và đổi tựa đề là ‘Dũng sĩ diệt mãng xà vương’ kèm theo bức tranh minh họa cho câu chuyện thần kỳ. Nhà thơ Tố Hữu, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Đảng nói với hội nghị Tuyên huấn – Báo chí về niềm tự hào dân tộc đã có một công nhân bình thường nhưng hành động phi thường, là ‘Thạch Sanh thời đại , ‘Thạch Sanh cộng sản’. Hồ Chủ tịch mau chóng tặng thưởng cho Lê Văn Hạng ‘Huy hiệu Bác Hồ’. Ban thi đua khen thưởng Trung ương làm thủ tục xét thưởng huân chương lao động hạng nhất…
“Giữa lúc cả nước đang náo nức vui mừng thì bỗng có một tin chấn động: Các nhà khoa học Ba Lan cho rằng con trăn khổng lồ xuất hiện ở Việt Nam nếu là có thật thì nó đánh đổ các học thuyết về cổ sinh vật học đang được giảng dạy hằng trăm năm nay. Họ đề nghị Nhà nước Ba Lan mua bộ xương này với giá tương đương một nhà máy lớn. Trước mắt, họ xin Nhà nước Việt Nam cho họ được tới khảo sát bộ xương con trăn thần và khu rừng nơi anh Hạng tìm thấy con trăn và bắn chết nó. Họ phán đoán, khu rừng này phải là rừng nguyên sinh và rất có thể ở đó còn có nhiều động vật khổng lồ của thời tiền sử!
“Tin này như một tiếng sét làm tỉnh cơn mê. Hồ Chủ tịch chỉ thị phải nhanh chóng xác minh sự thật. Ban Tuyên huấn Trung ương yêu cầu báo Lao Đông trong thời gian sớm nhất phải có báo cáo chính xác.
“…Trong lúc ban biên tập báo Lao Động cho phóng viên xuống nhà máy bơm Hải Dương tìm hiểu thực hư thì một cộng tác viên tờ báo là kỹ sư nông nghiệp của Bộ Nông trường, nhân đến tòa báo gửi bài cộng tác đã vui chuyện kể rằng chính anh ta được chứng kiến lúc anh Hạng đưa con trăn thần về nông trường. Anh nói, rất tiếc là bài báo của Tất Biểu không kể những chi tiết không thể nào quên như: Khi hai con trâu kéo con trăn về tới đoạn dốc hơi cao ở khúc quanh vào văn phòng nông trường thì một con trâu bị đứt ruột, ngã khuỵu. Từ văn phòng gần đó, năm sáu cô nhân viên hiếu kỳ chạy ra xem. Vừa nhìn thấy đầu con trăn khổng lồ há mồm thè lưỡi, các cô hốt hoảng nháo nhào ù té chạy, một cô yếu tim ngất xỉu.
“Anh kỹ sư đã làm cho Ban biên tập báo Lao Động như sắp chết đuối vớ được cọc. Anh Nguyễn Anh Tài đề nghị anh kỹ sư làm cố vấn cho đoàn báo Lao Động vào rừng Nghệ An thẩm tra vụ trăn thần. Đang vui chuyện, hóm hỉnh bỗng anh lặng lẽ, trầm tư, nói rất lấy làm tiếc, vì công việc đang chồng chất, không thể sắp xếp để cùng đi với đoàn.
“…Anh kỹ sư ngồi lặng mấy giây, rồi hai vai run lên, đầu gục xuống, vừa nức nở khóc, vừa nói không ra lời: ‘Tôi… tôi cứ tưởng mọi việc đúng như trong bài báo là … tôi theo đó rồi thêm thắt cho vui câu chuyện… Tôi xin lỗi… rất là là xin…lỗi…’!
Kết luận câu chuyện “Con Trăn Thần”, Tống Văn Công viết: “Không chỉ báo Lao Động mà các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đều muốn câu chuyện “Thạch Sanh cộng sản” quên dần trong im lặng, bởi nó phơi bày sự dốt nát, háo danh và cẩu thả của cả hệ thống chính trị và khoa học của chế độ”.
Tống Văn Công bừng tỉnh huyễn mộng với cộng sản nhờ vào thông tin bùng nổ trong thời đại Internet, nhưng không phải người cộng sản nào cũng nhận ra bộ mặt thật của chế độ toàn trị, cho dù hàng ngày biết bao thực tế ê chề diễn ra chung quanh. Điển hình là chính thân phụ ông Công, người đảng viên vào đảng cộng sản từ năm 1930, từng tham gia chín năm chống Pháp.
Xem thêm: " Máy Tính Cầm Tay Casio - Mua Online Máy Tính Bỏ Túi Giá Cực Tốt
Ông Công thuật lại nội dung một buổi trò chuyện giữa hai cha con sau năm 1975, cha ông nói: “Tao vẫn tin rằng chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng được cho loài người, nhưng mà bọn đảng viên ở quận Ba Tri này tao thấy đem thằng nào ra bắn cũng đáng tội hết, mày à”! Một người bạn ông Công ngồi nghe chuyện giữa hai cha con ông Công, bình luận: Chưa nói tới cái chủ nghĩa cộng sản, ngay cái chủ nghĩa xã hội cũng còn quá xa! Nói chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng loài người (!) Nhưng ai thực hiện nó đây? Các đảng viên thực hiện mới có mấy năm đã be bét, đến nỗi đem thằng nào ra bắn cũng được. Vậy chẳng lẽ việc trọng đại này phải nhường cho bọn cựu đại địa chủ và tư bản hay sao”?
Sau mấy chục năm hết lòng tận tụy với Đảng cộng sản, vào tuổi hoàng hôn của đời người, Tống Văn Công dứt khoát vất bỏ cái “vòng kim cô” ông tự quàng lên đầu từ thủa còn là một thanh niên bỏ quê hương miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954.
Ngày 25 tháng Hai năm 2014, ông gởi “Lời Chia Tay Đảng Cộng Sản Việt Nam”. Ông nhận được nhiều ý kiến đóng góp, trong đó có nhà văn Thái Bá Tân làm một bài thơ tặng ông với những câu: “… Trót đưa lên bàn thờ. Muốn hạ xuống cũng khó. Làm thế nào bây giờ? Một người vì lý tưởng. Hy sinh cả cuộc đời. Đến già mới chợt tỉnh. Đau, không nói nên lời. Con cháu những người ấy. Dẫu giỏi và thông minh. Cũng khó lòng hiểu hết. Cái đau cha ông mình”.
Về phần ông, Tống Văn Công dặn mình chớ nói năng như một kẻ vô can và phải tự biết mình “ngu lâu”, là “tội đồ”. Ông viết: “Lúc nghe ông Nguyễn Văn Thiệu nói ‘đừng nghe cộng sản nói, hãy nhìn cộng sản làm’, tôi cho rằng, nói như ông Thiệu chẳng thuyết phục được ai! Cho đến khi trải nghiệm chính sách của Đảng cộng sản qua các thời kỳ, đối chiếu thông tin nhiều chiều, mới xác nhận câu nói của ông Thiệu là có cơ sở”.
Rõ ràng Hồi ký Tống Văn Công không nhằm biện minh cho sự “ngu lâu” của tác giả mà chỉ để cho thấy việc nhận ra chân lý trong giai đoạn lịch sử vừa qua của nước ta thật không dễ! Ông đau đớn tâm sự: “Trải qua 56 năm hoạt động trong Đảng, nay nghiệm lại, thức tỉnh, ngấm được nỗi đau lầm lạc vào con đường lịch sử, buộc dân tộc vào tròng độc tài đảng trị che giấu sau chiếc mặt nạ tự do, dân chủ”.
Và Tống Văn Công kết luận cuốn hồi ký bằng câu nói của Boris Yeltsin, một đảng viên cộng sản lão thành Nga và cũng là tổng thống đầu tiên của Liên Bang Nga sau chế độ Liên Xô: “Cộng sản không thể sửa chữa mà phải dứt khoát vất bỏ”.
Nhà xuất bản Người Việt
Tháng Mười, 2016
Đinh Quang Anh Thái
Trước khi vào chuyệnNgày 25 tháng 2 năm 2014, tôi gởi “Lời chia tay Đảng Cộng sản Việt Nam”. Sau đó, nhận được nhiều ý kiến rất khác nhau. Giáo sư Tương Lai, nhà văn Nguyên Ngọc, giáo sư Chu Hảo mừng cho tôi Đã xong trách nhiệm của một đảng viên 56 tuổi Đảng. Nhà báo Kha Lương Ngãi, nhà văn An Bình Minh chia sẻ: “Như phải ly dị sau cuộc hôn nhân dài 56 năm, dù trút được gánh nặng, nhưng sao khỏi chút bùi ngùi”! Nguyên chủ bút báo Tin Sáng Hồ Ngọc Nhuận: “Đọc Lời Chia Tay, tôi rất vui, bởi nó đóng góp cho dân chủ hóa đất nước”. Nhà văn Thái Bá Tân đưa lên “phây” bài thơ tặng tôi có những câu: “… Trót đưa lên bàn thờ. Muốn hạ xuống cũng khó. Làm thế nào bây giờ? Một người vì lý tưởng. Hy sinh cả cuộc đời. Đến già mới chợt tỉnh. Đau, không nói nên lời. Con cháu những người ấy. Dẫu giỏi và thông minh. Cũng khó lòng hiểu hết. Cái đau cha ông mình”. Tiến sĩ, luật sư Lưu Nguyên Đạt sau khi kể tội kẻ từng là “cơ sở truyền thông của Đảng Cộng Sản” đã nhận xét “Quyết định bỏ Đảng của Tống Văn Công không quyết liệt, không sáng sủa như lời phát biểu của luật gia Lê Hiếu Đằng. Nó không đanh thép bằng lập trường thô bạo của một trường Thu Hương”. Về phần mình, từ khi được mở mắt, bắt đầu viết những bài góp ý với đảng Cộng sản, lúc nào tôi cũng dặn mình chớ có nói năng như một kẻ “vô can” và phải tự biết mình “ngu lâu”, là “tội đồ”. Lúc nghe ông Nguyễn Văn Thiệu nói “Đừng nghe cộng sản nói, hãy nhìn cộng sản làm”, tôi cho rằng, nói như ông Thiệu chẳng thuyết phục được ai! Cho đến khi trải nghiệm chính sách của đảng Cộng sản qua các thời kỳ, đối chiếu thông tin nhiều chiều, mới xác nhận câu nói của ông Thiệu là có cơ sở! Vì vậy tôi nghĩ, phải viết như thế nào để dễ lọt tai hàng triệu đảng viên chưa được mở mắt và không ít người bị nhồi vào não “ơn Đảng, ơn Bác”. Với giọng nhẹ nhàng, nhưng tôi không lẫn tránh những đòi hỏi cấp bậc dân chủ hóa đất nước, thực hiện các quyền dân sự và chính trị, tự do ngôn luận, tự do lập hội, nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập, không cho phép Đảng đứng trên hiến pháp, pháp luật. Chính vì vậy mà tôi bị đảng Cộng sản đưa ra kiểm điểm mười lăm lần trong không khí đấu tố. Cuối cùng, không chấp nhận một đảng viên dám tự ý nói lời chia tay, ngày 6 tháng Ba năm 2014, Đảng công bố quyết định: “Khai trừ đảng viên Tống Văn Công vì đã có rất nhiều bài viết phát tán trên mạng internet xuyên tạc chủ trương chính sách, truyền bá những quan điểm trái với cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; mặc dù đã được phân tích, giáo dục nhiều lần, nhưng không sửa chữa, khắc phục mà vẫn tiếp tục sai phạm ngày càng nghiêm trọng hơn, không còn đủ tư cách đảng viên Cộng sản”.
Ông Nguyễn Gia Kiểng – Tập hợp Dân chủ Đa nguyên, trong bài “Thời điểm để nhìn rõ Đảng Cộng sản” đã cho rằng: “Thực ra chúng ta không nên thù ghét đảng Cộng sản. Nó chỉ là một sản phẩm của lịch sử và văn hóa của chính chúng ta. Một dân tộc không có tư tưởng chính trị không khác một con tàu không phương hướng, mọi tai họa có thể xảy đến và cộng sản chỉ là một”. Tôi đồng ý với nhận định này. Tôi “ngu lâu” là do những nguyên nhân lịch sử và văn hóa đó. Cha tôi đi theo cộng sản từ năm 1929. Làng tôi, quận tôi, tỉnh Bến Tre tôi có không 80% số dân đi theo cộng sản, riêng nông dân có thể lên đến 90%. Nhìn lại vài hiện tượng trong lịch sử: Hầu hết những người trong nội các Trần Trọng Kim và các văn nghệ sĩ nổi tiếng thời tiền chiến đều đi theo Việt Minh. Nhiều cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hòa bị tình báo cộng sản thâm nhập, nhưng không có ở chiều ngược lại. Ông Nguyễn Thành Nhân quận ủy viên quận Ba Tri bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa bao vây tứ phía, chạy thẳng vào nhà ông Tám Thương có hai người con trai là lính Việt Nam Cộng Hòa, một người vừa bị Việt Cộng bắn chết. Vậy mà ông Tám Thương ôm chầm lấy Thành Nhân, đưa xuống hầm bí mật. Rất nhiều trí thức xuất thân quan lại, có lập trường chống cộng, sau đó lại chấp nhận cộng sản: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo… Nhiều đảng viên cao cấp của Quốc Dân Đảng chuyển sang lập trường cộng sản như Trần Huy Liệu, Nguyễn Bình… Dân biểu đối lập trong nghị viện Việt Nam Cộng Hòa, chủ nhiệm báo tin sáng, ông ngô công đức, cha bị cộng sản xử tử, vậy mà trong hồi ký của ông in đậm những dòng này: “Có nhiều lúc trằn trọc khi nghĩ lý tưởng đã nằm trong tay của những người đã viết thân phụ mình và cuối cùng nhận họ là anh em, thì phải đặt tổ quốc trên hết”. Học giả Hoàng Xuân Hãn trong lá thư đề ngày hai tháng giêng năm Bính Tý (1996) gửi cho Võ Nguyên Giáp đã viết: “Nước ta chỉ có hai cuộc giải phóng mà thôi, thời 1416-1427 với Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi và thời 1945-1975 với bác Hồ cùng các anh… cái cần thiết trong cuộc giải phóng là cái Đức của người lãnh đạo, cái Đức để cho địch không tìm cách mua chuộc mình và làm gương cho nhân dân giữ lòng yêu nước…” Nhắc lại những điều trên đây, tôi không nhầm biện minh cho sự ngu lâu của mình mà chỉ để cho thấy việc nhận ra chân lý trong giai đoạn lịch sử của nước ta vừa qua và không dễ!
Trải qua 56 năm hoạt động trong Đảng, nay nghiệm lại, thức tỉnh, ngấm được nỗi đau lầm lạc trên con đường nghiệt ngã của lịch sử, buộc dân tộc vào tròng độc tài đảng trị che giấu sau chiếc mặt nạ tự do, dân chủ.
Nhớ vài chuyện hồi nhỏCha tôi bị nhà nước thực dân quản thúc
Khoảng lên năm tuổi, tình cờ tôi được biết cha tôi, Tống văn Thêm, bút danh Tăng Ích, là người đang bị nhà nước thuộc địa Pháp quản thúc. Hôm đó, cha má sắp đưa tôi về quê ngoại thì bà nội gặng hỏi: “Con đã xin phép ban Hội tề chưa? Mình phải giữ cho đúng lề luật”.
Tôi thắc mắc hỏi cô Ba tôi và cô kể: Cha tôi lên Sài Gòn học trung học, ở trọ nhà ông Đồ Nam thầy thuốc Bắc. Ông Đồ Nam là học trò của Nguyễn Ái Quốc phái về hoạt động cộng sản. Bác Nguyễn Tư con ông Đồ Nam học cùng lớp, chơi thân với cha tôi. Có lẽ vì thế mà trong nhiều học trò ở trọ, ông Đồ Nam chọn cha tôi để tuyên truyền cộng sản. Sau một năm, cha tôi bỏ học, về nhà xin ông nội tôi sắm máy chụp hình để đóng vai thợ ảnh đi hoạt động cách mạng (khi tôi biết thì ở góc nhà vẫn còn một đống phim bằng kiếng cỡ 20×30 cm). Lý lẽ “học cho giỏi chỉ để làm mọi cho Tây” của cha tôi đã thuyết phục được ông nội, bà nội tôi.
Ngày một tháng 5 năm 1930 cha tôi tham gia cuộc biểu tình hơn 200 người ở xã Tân Xuân, huyện Ba Tri và bị bắt. Sau này tôi được nghe người bạn của cha tôi là chú Huỳnh Dư Bì (sau này là Cục phó Cục Quản lý Thi công, Bộ Xây dựng thời ông Đỗ Mười làm bộ trưởng) kể: “Cha mày với hơn chục người làng An Bình Tây bị bắt, nhốt vô Nhà Việc (còn gọi là Nhà Vuông), trụ sở Ban Hội Tề của xã). Thằng Đội Xôm được chủ quận Ba Tri phái vô chỉ huy tra tấn những người cộng sản. Nhà chú ở gần Nhà Việc, cho nên suốt đêm nghe tiếng kêu la của những người bị đánh đập, không sao chợp mắt!” Ông nội tôi phải bán nhiều ruộng đất để đưa tiền nhờ ông Sáu Lục, anh ruột ông nội, đang làm Hương Chủ (vị trí thứ nhì trong ban Hội Tề gồm 12 vị) lo lót, chuộc cho cha tôi, không bị đày ra Côn Đảo mà chỉ bị quản thúc tại nhà.
Sau khi đi học biết đọc, tôi giở từ điển Hán Việt của cụ Đào Duy Anh soạn từ 1932, xem định nghĩa từ Cộng sản: “Cái chủ nghĩa muốn tiêu diệt quyền tư hữu, đem tất cả các cơ quan sinh sản và sinh sản phẩm trên xã hội làm của chung của tất cả mọi người, đặt cơ quan thống kê và quản lý chung; về mặt chính trị thì chủ trương liên hiệp tất cả giai cấp lao động để đánh đổ chế độ tư bản”. Tôi lại tìm định nghĩa chế độ tư bản cũng trong sách này: “Chế độ sản nghiệp lấy mưu lợi là mục đích, chế tạo ra hàng hóa là cốt mưu lợi, chứ không có cung cấp cho sự cần dùng”. Dù chỉ hiểu lơ mơ, nhưng tôi cũng cảm nhận “tư bản” gắn liền với “thực dân Pháp”, kẻ xâm chiếm nước mình, “cộng sản” chống Pháp như vậy thì chắc chắn là tốt.
Có điều lạ, tuy bị quản thúc, đi đâu phải xin phép, vậy mà cha tôi lại thường xuyên ngồi ở Nhà Việc đánh cờ tướng với ông Hương Cả Nga, đứng đầu Ban Hội Tề. Mỗi khi bà nội sai tôi đi tìm gọi cha tôi về ăn cơm, tôi biết ngay là phải chạy tới Nhà Việc, tìm lý do để chấm dứt cuộc đấu cờ say mê giữa một ông đứng đầu nhà chức trách của chế độ thực dân với một đảng viên cộng sản đang bị quản thúc! Khoảng năm 1980, em tôi là Tống Văn Cảnh, cán bộ ban tuyên giáo huyện ủy Ba Tri được giao viết quyết lịch sử đảng bộ Cộng sản xã An Bình Tây. Quyển Lịch sử có đoạn “cuối năm 1938 tên Hương Quản Nga theo lệnh tên Quận Mẫn đã khủng bố kềm kẹp nhân dân, truy tầm bắt bớ cán bộ, đảng viên xã An Bình Tây, bắt đàn ông hàng đêm phải mang cây đi ngủ tập trung, để canh chừng cộng sản”. Năm 1938, tôi đã lên sáu, đến nay còn nhớ nhiều chuyện thời ấy, nhưng không nhớ chuyện này. Tôi hỏi cha tôi về đoạn văn trên, ông cười: “Nó viết theo chủ trương tuyên truyền hiện nay đó mà. Từ lúc làm Hương quản cho tới khi lên Hương cả, ổng có bắt cán bộ, đảng viên nào đâu. Đảng viên mà không đi biểu tình hô hào lật đổ chế độ thực dân Pháp thì họ cũng không bắt. Ông Dương Bạch Mai đảng viên đảng Cộng sản Pháp sang Liên Xô học đại học Đông Phương của Stalin, năm 1932 về Sài Gòn làm báo cộng sản, vẫn đắc cử Hội đồng Thành phố Sài Gòn. Ông Huỳnh Thúc Kháng hoạt động chống Pháp, bị tù Côn Đảo 11 năm, ra tù lập báo Tiếng Dân tuyên truyền lý thuyết Duy Tân, vẫn được bầu vào Viện Đại biểu Trung Kỳ”.
Hóa ra thời thực dân Pháp ranh giới thù địch giữa nhà nước thuộc địa với người dân không chia thành chiến tuyến quyết liệt như hiện nay giữa Đảng Cộng sản với người dân đòi dân chủ tự do!
Gia đình yêu thương
Ông nội tôi có ba người con, nhưng chỉ có cha tôi là trai. Sau khi cha tôi bị bắt vì tội làm cộng sản, ông nội tôi sốt ruột chuyện “nối giòng”. Có người mai mối má tôi là Nguyễn Thị Thâm ở làng Giồng Tre (xã An Ngãi Trung) cho cha tôi. Ông tôi đã chọn ngày tốt làm lễ “coi mắt”, nhưng cha tôi không chịu đi. Ông tôi rút chiếc roi mây bảo, nếu không chịu đi thì nằm xuống phản “ăn roi”. Chàng trai 20 tuổi đã ngoan ngoãn nằm xuống chịu đòn.
Một tháng sau, nhân có việc tới Giồng Tre, cha tôi hỏi các bạn ở đây về cô Nguyễn Thị Thâm đã khiến mình bị ăn roi. Cậu Tư Đáo, con người chú thứ mười của má tôi tìm ra cớ để đưa cha tôi tới làm khách của ông ngoại tôi mà được má tôi pha trà đem ra mời. Buổi sáng đó đã nên “duyên kỳ ngộ”. Hôm sau, cha tôi vui vẻ rót rượu mời ông bà nội tôi, xin nhận lỗi vì đã cãi cha mẹ, này xin được làm lễ “coi mắt”! Ông nội tôi cứ nghĩ cha tôi đã ưng cô gái nào khác, đến khi biết vẫn là cô gái ở Giồng Tre, ông tôi bật cười: “Tại sao để ăn đòn rồi mới chịu đi”?
Sau lễ ra mắt, hai họ quyết định các bước kế tiếp theo tập tục. Cha tôi phải tới “ở rể” tại nhà ông bà ngoại tôi. Trong bữa cơm đầu tiên, ông ngoại tôi cầm chai rượu lên hỏi: “Con có biết uống rượu không?” Cha tôi đáp: “Dạ, có chút đỉnh”. Ông ngoại tôi rót đầy ly nhỏ, đưa cho cha tôi. Cha tôi cầm lấy, cảm ơn và uống cạn. Ông ngoại tôi cười lớn nói bỗ bã: “Tao thích mày! Trong trường hợp này nhiều thằng sẽ ỏn ẻn, dạ thưa, con không biết rượu chè. Sau khi lấy được con gái người ta rồi thì nó mới lộ ra bộ mặt Lưu Linh!” Một hôm, bà ngoại tôi sai cha tôi chặt trái dừa cho cậu út tôi uống. Cha tôi cầm quả dừa xoay qua, trở lại mãi. Bà ngoại tôi nhìn thấy biết con rể mình thuộc tuýp người “dài lưng tốn vải”, đã bảo má tôi “kíp cứu nguy cho chàng”.
Tết Tân Mùi, 1931 cha má tôi làm lễ cưới và ngày rằm tháng chín năm Nhâm Thân, 1932, tôi được ra đời. Có lần cha tôi nói, ông không dám tiếp tục nhận nhiệm vụ của đảng là vì nghĩ đến sự hiểm nguy cho má con tôi. Cha tôi giải thích tên Công của tôi không phải là công hầu, cũng không phải công tư, mà là công nhân thợ thuyền. Như vậy là ngày vừa mới sinh ra, tôi đã được giao cho ông Mã Khắc Tư (Karl Marx)! Một lần, cha tôi đưa tôi đến ông thầy nổi danh coi tướng Đại Lục Tiên. Ông này nói: “Nếu sau này cháu làm thợ bạc thì khó ai bì kịp, thứ hai mới là làm biện lý.” Ra về, cha tôi bảo, con chớ có làm thợ bạc, nếu làm thợ thì làm thợ mộc. Cha tôi được cho biết đảng Cộng sản là đảng của giai cấp công nhân, nhưng ông không thể hình dung được công nhân là một tập thể lao động trong xưởng máy. Theo ông, thợ mộc, thợ hồ, thợ hớt tóc… là giai cấp công nhân.
Tôi có may mắn là suốt tuổi thơ được sống trong một gia đình đầy tình yêu thương. Ông bà tôi dù túng thiếu bao giờ cũng dành tiền gạo cho người ăn xin. Một lần, từ vùng tản cư, tôi trốn theo mấy anh lớn vào vùng Pháp chiếm. Quá lo sợ đến tức giận, ông nội tôi buộc phải phạt roi đứa cháu đích tôn. Tôi biết mình có lỗi đáng bị ăn đòn, nên không khóc, nhưng ông tôi vừa khẽ nhịp roi, vừa nức nở nghẹn ngào. Trái lại, bà nội tôi không bao giờ vì tức giận mà đánh cháu, bà tôi đánh vì “thương cho roi, cho vọt”. Một lần, bà giê lúa, Tôi chạy nhảy làm đổ lúa, bà bảo không nghe, đến khi tôi làm đổ lúa lần thứ hai, bà ra lệnh: “ Về nhà, nằm sẵn ở bộ ván”. Tôi về nằm khóc một lúc thì ngủ. Đến bữa cơm chiều, được gọi dậy, tôi mừng vì nghĩ đã thoát khỏi ăn đòn. Nhưng không thoát được, sau bữa cơm, bà thong thả ngoái trầu, ăn trầu xong mới khẽ gọi, “Công đâu? Ra cúi xuống đây!” Bà không hề nóng giận, chậm rãi phân tích cái hư cái sai của cháu đến mức không thể tha thứ. Còn cha tôi thì ông chỉ vung roi với con khi nổi giận. Ông thường dặn: “Hể thấy cha nổi nóng thì con mau mau chạy biến đi! Đừng có đứng đó, cha đánh chết.”
Ông nội và cha má tôi đều mua rất nhiều sách. Lúc nhỏ tôi thích nằm nghe má đọc Truyện Kiều và các loại thơ. Nghe nhiều lần, tôi thuộc từng đoạn, dù không hiểu gì. Khi biết đọc, chủ nhật, ngày hè, tôi thường đọc truyện Tàu cho ông nội, bà nội nghe. Tôi sớm được biết quê mình có những chí sĩ yêu nước đồng thời là những nhà thơ như Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Tòng, bà Sương Nguyệt Anh nhà thơ sáng lập Nữ Giới Chung, tờ báo đầu tiên của phụ nữ Việt Nam… Tôi thích Phan Thanh Giản, một ông quan suốt triều vua, đã có những câu thơ cảm thương người vợ: “ Đường mây cười tớ ham rong ruổi; trướng liễu thương ai kẻ lạnh lùng…” Khi biết nghĩ đến vận nước, tôi thích câu “Non nước tan tành hệ bởi đâu” của cụ Đồ. Năm 18 tuổi vào Vệ Quốc Đoàn, tôi động viên mình “mặc kệ thằng Tây, đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào như chẳng có” trong Lời Điếu Nghĩa Sĩ Cần Giuộc.
Bất hạnh lớn nhất của tôi là má tôi bị viêm phổi qua đời năm tôi mới lên bảy. Cha tôi là thầy thuốc Đông y giỏi chữ Nho, Nhưng ông lập bài vị thờ má tôi bằng chữ quốc ngữ. Ở giữa nần giấy màu xanh kẻ hai chữ lớn màu trắng: VỢ TÔI. Hai bên là hai câu đối tiếng Việt: “Chồng khóc, con kêu thấy chỉ đáp thăng dòng nước mắt”. “Vợ hiền, dâu thảo, tìm nơi họa cô cảnh chiêm bao”. Rất nhiều buổi, cha tôi ngồi bên bàn thờ làm thơ như trao gởi tâm linh với má tôi. Đáng tiếc là tôi chỉ nhớ được một vài câu mà trái tim non nớt cảm nhận được: “Xuống đất hóa bùn sẽ gặp nhau.”
Ông già Ba Tri
Giữa năm 1942 từ xã An Bình Tây, tôi đi bộ hai cây số để vào học lớp ba trường tiểu học Ba Tri. Lúc ấy, Nhật đã chiếm Đông Dương hai năm. Bên Pháp, thống chế Pétain đầu hàng Phát xít Đức, ở Đông Dương, toàn quyền Decoux hàng phục Phát xít Nhật. Để lấy lòng người Việt, Decoux cho phát triển phong trào hướng đạo, cho lập sân vận động, phát triển bóng đá, thể dục thể thao, cho học tân nhạc… Theo phong trào hướng đạo, học sinh chúng tôi mặc bộ đồng phục quần đỏ áo sơ mi trắng. Trường tiểu học Ba Tri mời nhạc công từ nhà thờ Giồng Tre tới dạy học sinh các bài hát Pháp như La Marseillaise, Maréchal nous voilà… và những bài tân nhạc Việt Nam như Tiếng gọi sinh viên, Trên sông Bạch đằng, Ải Chi Lăng… Ông đốc Trinh của trường tiểu học Ba Tri đặt lời Việt cho một bài hát Pháp có nội dung ca ngợi Pétain và chính quyền thực dân ở Đông Dương: